Polyp đại tràng nói chung hay polyp vùng đại tràng sigma, trực tràng nói riêng là một bệnh lý tương đối phổ biến trong nhóm bệnh ở đường tiêu hóa dưới. Theo thống kê tại Mỹ, polyp đại trực tràng gặp khoảng 15-20% người trưởng thành, 1% trẻ em ở độ tuổi học đường, người trên 60 tuổi polyp đại trực tràng chiếm tỷ lệ khoảng 10%.
Về phân bố của polyp thì polyp đại tràng sigma và trực tràng là thường gặp nhất, có các triệu chứng đặc thù và có nguy cơ gây ung thư cao, nhất là các polyp có kích thước ≥ 10 mm. Nguy cơ phát triển thành ung thư liên quan đến số lượng, kích thước và bản chất của polyp. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới, kích thước polyp càng to thì nguy cơ tiến triển thành ung thư càng cao. Cùng với sự phát triển của nội soi, các phương pháp điều trị polyp đại trực tràng cũng được nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện, trong đó kỹ thuật cắt polyp qua nội soi ống mềm sử dụng nguồn điện xoay chiều có tần số cao kết hợp với kỹ thuật cầm máu bằng nhiệt để điều trị polyp đại trực tràng đã được áp dụng ở một số cơ sở y tế lớn.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, nội soi, mô bệnh học và kết quả cắt polyp trực tràng và đại tràng sigma có kích thước ≥ 10 mm”